NHƯ HỒN TRONG XÁC
Chương
5: TƯ TƯỞNG CỦA CHÚA VÀ TƯ TƯỞNG PHÀM NHÂN
Trong bài Du Xuân trên
cuốn sách nhỏ nhan đề Sài Gòn Chợ Lớn Rong Chơi (nxb Văn Nghệ, Tp HCM 1999),
nhà văn Lý Lan kể:
“Tôi
còn đứng ngần ngừ [giữa chợ tết] thì một bà cụ mặc đồ nâu sồng nhỏ nhẹ nói với
tô: ‘Xin cô cho chùa ít trái cà’. Tôi hỏi ra mới biết bà vãi đi xin đồ cho chùa
ăn tết. Chùa ở nơi hẻo lánh, chỉ có các ni cô với bà vãi, không nằm trong danh
mục các thắng cảnh du lịch hành hương nên ít khách vãng lai. Tôi thực sự vui mừng
nói: ‘Bà lựa bao nhiêu tùy ý’. Bà vãi ngồi xuống, sẽ sàng lượm mấy trái cà dập.
Tôi nói: ‘Bà cứ lựa mấy trái tốt, mình mua mà, tôi trả tiền’. Bà vãi ngước nhìn
chị nhà quê nói: ‘Lựa hết trái tốt rồi cổ khó bán lắm, nhà chùa ăn sao cũng được
mà’. Tôi hỏi bà cặn kẽ đường đi lên chùa. Chẳng phải tôi đã tặng bà một thúng
rau quả dập, mà chính bà đã tặng tôi một câu chuyện hay”.
Tôi thấy trong câu chuyện
này có hai cách lý luận, hai thứ lô-gích, cái nào cũng hợp lý cả nhưng rõ ràng
không có giá trị ngang nhau. Lý luận của nhà văn kể chuyện là: Bà vãi có thể và
có quyền lựa những trái cà tốt, thậm chí tốt nhất, vì mình mua, mình trả tiền
sòng phẳng, chứ không phải xin xỏ gì người bán. Đây là lý luận dựa trên sự công
bằng, hoàn toàn đúng. Đàng khác, tuy không nói rõ ra, nhưng nhà văn có thể đã
suy nghĩ trong lòng theo cách lý luận quen thuộc của “xã hội”, rằng bà vãi càng
nên lựa những trái tốt vì khi đã có người khác trả tiền thay cho, thì thật là
khờ dại nếu chỉ lựa những trái chưa đáng mấy đồng xu mà lấy. Cũng không thể coi
lý luận này là bất hợp lý. Thậm chí còn được coi là khôn nữa! Nhưng trong một
hoàn cảnh khác, nó có thể trở thành lý luận của lòng tham, chẳng khác gì trường
hợp mấy ông cán bộ, công chức vào chợ mua thả dàn hay vào nhà hàng gọi những
món ăn đắt tiền nhất mà chẳng cần tính toán gì về giá cả “vì người trả tiền là
cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, không phải là mình”. Lý luận này của mấy ông “quan
tham” có vẻ không trái với lô-gích (không phi lý) nhưng trái với đạo đức. Đạo đức
có cái lô-gích riêng của nó.
Đối lại lý luận của nhà
văn là lý luận của bà vãi. Bà chỉ lấy những trái cà dập, và bà có lý của mình:
Mình lựa hết trái tốt rồi, chỉ còn lại toàn trái xấu thì làm sao cô hàng bán hết
được? Nhà cô ta chắc nghèo lắm vì đến mấy trái cà dập mà cũng đem đi bán, mong
kiếm thêm được ít đồng cho gia đình ăn tết. Lý luận này là của tấm lòng nhân
ái, không còn là của sự công bằng, của sự trao đổi sòng phẳng nữa, mà nằm ở mức
độ cao hơn. Vì thế chính Lý Lan đã thừa nhận nhà tu hành đã tặng cho chị một
câu chuyện hay, một bài học hay.
Lô-gích của Chúa và
lô-gích của con người
Trong Kinh Thánh, nhất
là trong Tân Ước, và đặc biệt các sách Tin Mừng, chúng ta gặp rất nhiều những
cách lý luận, lập luận hay lô-gích khác nhau, thậm chí trái ngược nhau như:
lô-gích của tình yêu và lẽ công bằng, của sự khôn ngoan của Chúa và khôn ngoan
thế gian, của Lề luật cũ và tự do Nước Trời, của tập tục lỗi thời và lẽ phải, của
thể diện và sự chân thật, của đạo cũ và đạo mới, của quan điểm chính trị và
quan điểm Tin Mừng, của người giàu (như nhà phú hộ) và người nghèo (như anh
La-gia-rô), của kẻ tự coi là công chính và của người biết mình là tội lỗi, v.v.
Nhìn chung, những va chạm hay mâu thuẫn đã xảy ra thường là giữa cái lô-gích mới
mẻ của Chúa Giêsu và nhiều thứ lô-gích khác, nghĩa là nói cho cùng, giữa những
giá trị mới của Chúa và một số giá trị khác, vì những giá trị này bị tương đối
hóa hoặc bị vượt qua hoặc đơn giản bị phủ nhận bởi các giá trị Chúa rao giảng
và thực hành. Thử lấy vài ví dụ.
Đức Giêsu và người
Pharisêu
Mâu thuẫn giữa Chúa và
phái Pharisêu thường xảy ra chung quanh việc giữ lề luật mà tiêu biểu là luật cấm
làm việc ngày Sabát. Họ đã đẩy tính bó buộc của luật này đến mức chi ly, gần
như vô lý như không đi đường dài, không bứt dù chỉ là vài bông lúa trong tay mà
ăn, không khiêng vật nặng… Nhóm sùng đạo Êxêniên còn khắt khe hơn, chẳng hạn họ
không dám nấu mà chỉ hâm đồ ăn trong ngày Sabát. Khi làm như thế, họ quên mất mục
đích nguyên thủy của luật cấm làm việc ngày Sabát là gì, mà cái mục đích đó mới
là quan trọng.
Phúc Âm kể: Hôm đó là
ngày Sabát, tại một hội đường, Chúa Giêsu gặp một người bị bại một tay. Người
ta hỏi Người: “Có được phép chữa bệnh ngày Sabát không?” Họ hỏi thế không phải
vì thật lòng muốn biết câu trả lời của Người nhưng cốt để tố cáo Người bởi họ
đoán chắc trước rằng thế nào Người cũng lại chữa bệnh cho người bại tay. Chúa hỏi
lại: “Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày Sabát, lại không
nắm lấy nó mà kéo lên sao? Mà người thì quý hơn chiên biết mấy! Vì thế, ngày
Sabát được phép làm điều lành”. Rồi Chúa nói với người bại tay: “Anh giơ tay
ra!” Người ấy giơ tay ra và tay liền trở lại lành mạnh như tay kia. Và bài tường
thuật của Thánh Mátthêu thêm: “Ra khỏi đó, nhóm Pharisêu bàn bạc để tìm cách giết
Đức Giêsu” (x. Mt 12,10-14).
Lý luận của Chúa, hay
lô-gích của Người dựa trên nguyên tắc: điều tốt, điều lành thì bao giờ cũng nên
làm, và luật lệ là phương tiện, không phải là cùng đích. Vấn đề không phải là
có được “làm việc ngày sabát” hay không mà là có nên làm một việc tốt cho một
con người bất hạnh trong ngày sabát hay không? Nếu người ta bớt “nguyên tắc”, bớt
“lý thuyết” suông đi và đưa vấn đề vào cụ thể chắc hẳn người ta sẽ dễ tìm ra
câu trả lời đúng hơn. Người Pharisêu, nếu họ suy nghĩ các bình thường, tất cũng
sẽ hành động như Chúa Giêsu mà thôi, bằng chứng là họ không dám trả lời câu hỏi
của Chúa: “Ai trong các ông có một con chiên (mà lại là con chiên độc nhất) bị
sa hố ngày sabát, v.v.?” Họ làm thinh vì sợ tự mâu thuẫn khi phải trả lời rằng
chính mình cũng sẽ kéo con chiên ra khỏi hố ngày Sabát – (đó là vấn đề “lương
tri”) -, thế nhưng họ lại không chấp nhận cho Người chữa lành một con người vốn
còn cao quý hơn gấp bội so với một con chiên! Lý luận lành mạnh của họ bị méo
mó bởi một đầu óc tôn giáo lệch lạc. Họ lúng túng vì óc vụ luật – luật lệ trên
hết mọi sự!-, họ muốn trung thành tuyệt đối với luật vì thế dễ rơi vào mâu thuẫn
với cuộc sống thực tế và thường chỉ còn giữ luật cho có hình thức mà thôi. Chúa
Giêsu cũng giữ ngày Sabát như mọi người Do Thái đạo đức như đi cầu nguyện và
nghe giảng Sách Thánh tại hội đường (x. Lc 4,16-22), nhưng Người đi sâu vào ý
nghĩa, nội dung của luật, Người không tuyệt đối hóa nó nhưng coi nó cũng chỉ là
một phương tiện phụng sự Thiên Chúa và vì thế, nó không được phép ngăn cản bổn
phận bác ái đối với con người (x. Mc 2,27; Lc 13,10-16; 14,1-5). Người tuyên bố:
“Ngày sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày
sabát” (Mc 2,27). Vì tinh thần vụ luật nên hành động của người Pharisêu, ngay cả
hành động tôn giáo, thường rơi vào sự giả hình, - tức là một sự thiếu ăn khớp
(bất hợp lý, thiếu lô-gích) giữa hành động bên ngoài và thái độ thật bên trong.
Chúa Giêsu và các Tông
Đồ
.jpg)
Tôi muốn nêu lên hai
trường hợp. Trước hết là chuyện ông Simon-Phêrô. Sau khi Chúa Giêsu tiên báo lần
thứ nhất cho các môn đệ biết Người sẽ lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các
kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ phục
sinh, ông Phêrô kéo riêng Người ra và trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng
để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Chúa nghiêm khắc bảo ông: “Sa-tan, lui lại đằng
sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của
Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,21-23). Vậy mà ngay trước đó, Phêrô –
nhờ Chúa Cha mạc khải cho – đã tuyên xưng rất đúng: “Thầy là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống”, và vì thế ông được Thầy khen là “có phúc” (Mt 16,17).
Còn bây giờ, lời trách của Chúa thật quá bất ngờ, quá nặng nề, Phêrô bị coi như
Sa-tan và Sa-tan đã từng cám dỗ Chúa trong sa mạc hãy đi theo con đường vinh
quang trần thế mà chính nó bày vẽ ra hòng lôi cuốn Người. Chắc chắn Phêrô có lý
lẽ riêng của ông để can ngăn Thầy, chắc chắn về mặt chủ quan ông cũng chỉ muốn
điều tốt cho Thầy mà thôi, nhưng suy nghĩ và ý muốn của ông lại ngược với suy
nghĩ và ý muốn của Chúa Giêsu, cũng là ý muốn của Thiên Chúa Cha. Thiện tâm, thiện
ý mà thôi chưa đủ!
Trường hợp thứ hai liên
quan tới hai ông Giacôbê và Gioan, cũng là những tông đồ “ruột” (thân tín) của
Chúa Giêsu như ông Phêrô. Chuyện cũng xảy ra sau khi Chúa tiên báo cuộc Thương
Khó của Người lần thứ hai. Hôm ấy, Thầy trò từ Galilê lên Giêrusalem. Người sai
mấy sứ giả đi trước, vào một làng Samari để chuẩn bị cho Người đến sau. Dân
làng từ chối đón tiếp Người vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Nên biết dân
Samari và dân Do Thái thù ghét nhau sâu sắc. Thấy thế, Giacôbê và Gioan nói với
Chúa: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy bọn
chúng không?” Nhưng Chúa quay lại quở mắng hai ông. Rồi Thầy trò đi sang làng
khác (x. Lc 9,51-56).
Chúa Giêsu kêu gọi các
Tông Đồ đừng vội nóng giận, vì những người Samari từ chối không đón tiếp Chúa
trong dịp này đâu có đáng trách hơn những người Do Thái đóng cửa không tiếp đón
người Samari vì người này là kẻ đối nghịch? Mình có hơn gì người ta đâu! Mình cứ
vẫn cứ hành xử theo kiểu “mắt đền mắt răng đền răng” của thời Cựu Ước xa xôi!
Đàng khác, cách phản ứng của hai Tông Đồ Giacôbê và Gioan bề ngoài có vẻ bênh vực
Chúa nhưng thật ra lại rất trái với tinh thần của Chúa. Cách phản ứng ấy rất dễ
đưa tới cuồng tín và hận thù tôn giáo giữa những người khác đạo. Chúa Giêsu không
ngả theo thứ cuồng tín đó. Người dạy ta đừng lẫn lộn chính nghĩa của Thiên Chúa
với chính nghĩa của chúng ta hay với lợi ích tập thể tôn giáo chúng ta. Như vậy,
ở đây có hai lô-gích không thể hòa hợp.
Còn Kitô hữu chúng ta
theo các lý luận hay theo lô-gích nào?
Khi làm một việc hay
khi chọn một lập trường, một thái độ cư xử, chúng ta có thể có nhiều thứ lý luận,
nhiều thứ lô-gích vì có thể đứng trên những bình diện hay quan điểm khác nhau,
như chủng tộc, văn hóa, chính trị, tôn giáo. Nhưng là người môn đệ Chúa Kitô,
chúng ta luôn luôn còn phải tự hỏi thêm: Tôi đã tính đến lô-gích của Chúa, của
Tin Mừng chưa? Những lô-gích kia có đi đôi được với Tin Mừng không? Nói cách
đơn sơ, tinh thần nào, tư tưởng thâm sâu nào đang thực sự chi phối tôi? Thật rất
khó để nhìn mọi việc theo cái nhìn của Chúa Kitô. Đối với cá nhân Kitô hữu đã
thế mà đối với những tập thể Kitô hữu và ngay cả đối với Giáo Hội nữa. Kinh
nghiệm của các thánh Tông Đồ cũng như kinh nghiệm bản thân và lịch sử Giáo Hội
cho ta thấy rõ điều đó. Chúng ta (và có khi cả Giáo Hội ở cấp này cấp kia)
không dễ gì mà tránh khỏi những phản ứng, những chọn lựa không mang tính Tin Mừng,
nhưng ít nhiều theo cách thế gian, theo cái khôn trần tục, theo toan tính hẹp
hòi, đôi khi thâm sâu là một chọn lựa “ý thức hệ” được ngụy trang… Thế nhưng,
chúng ta lại thường dễ dàng đặt cách nhìn riêng của mình trong hào quang của
tôn giáo và vì thế rất khó để nhìn sự việc theo quan điểm của người khác, nói
gì tới việc chấp nhận quan điểm ấy! Chẳng hạn, không phải chỉ vì ta muốn bênh vực
quyền lợi của Chúa (hay của Giáo Hội) mà đương nhiên việc ta làm hay cách ta
làm đã là đúng, là phù hợp với tinh thần của Chúa. Như trên đã nói, thiện tâm
thiện ý và mục đích tốt chưa đủ.
Sở dĩ khó đi vào
lô-gích của Tin Mừng là vì cái thuận lý của Tin Mừng lắm khi lại là nghịch lý đối
với ta, và cái ta cho là hợp lý rất có thể là bất hợp lý đối với Tin Mừng. Quả
thực, nào ai dễ chấp nhận – trên lý thuyết mà nhất là trong hành động – tinh thần
của Tám Mối Phúc? Hay những lời dạy như: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những
kẻ ngược đãi anh em. Phải tha thứ cho kẻ đã xúc phạm đến anh em, không phải dăm
bảy lần mà luôn luôn. Hãy lấy điều lành đáp lại điều ác của tha nhân… Trong đáy
lòng, ta vẫn nghĩ rằng làm đúng như Chúa Giêsu dạy là dại dột, là thiệt thòi,
thiếu thực tế và rút cuộc khó tồn tại trên đời. Ta nghĩ thế, bởi vì “thế gian”,
hay “con người cũ” (nói theo thánh Phaolô) vẫn còn và tìm cách chi phối người
Kitô hữu và Hội Thánh. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp và cố gắng hoán cải không ngừng,
chúng ta mới mong thực hành nổi lời Chúa.
Trở lại bài học của nhà
tu hành Phật Giáo đầu bài này, ta thán phục vì bà đã phản ứng, chọn lựa, hành động
một cách rất tự nhiên, rất dễ dàng theo tinh thần Đức Phật mà bà đã thấm nhuần
sâu xa. Ước gì tinh thần Phúc Âm cũng thấm nhập và trở thành máu thịt trong ta
để trong mọi hoàn cảnh ta biết một cách tự nhiên (gần như bản năng) mình phải
làm gì cho xứng với danh hiệu môn đệ Chúa Kitô và mau mắn hành động theo!
Linh mục
Nguyễn Hồng Giáo, OFM
Nguồn:
WGPSG