KIẾN TRÚC TÔN GIÁO TRONG TÂM THỨC NGƯỜI VIỆT
Việt Nam là cái
nôi của nền văn minh lúa nước nên cuộc sống định canh định cư đã được định hình
từ lâu trong đời sống của cư dân nông nghiệp, và cũng chính vì vậy mà ngôi nhà
có một giá trị quan trọng đặc biệt trong tâm thức của người Việt. Ngôi nhà
chính là cái tổ ấm bảo vệ con người trước những khắc nghiệt của thiên nhiên và
là yếu tố đảm bảo cho một cuộc sống định cư ổn định. Vì thế đối với người Việt
chúng ta ngôi nhà là tất cả : trong nhiều tình huống đôi khi nhà được đồng nhất
với gia đình (ví dụ : cả nhà cùng quây quần bên bếp lửa…), đôi lúc nhà lại được
dùng để chỉ vợ hoặc chồng (ví dụ : nhà em đi làm đến tối mới về…), có lúc lại
được mở rộng nghĩa để chỉ những khái niệm khác như nhà nước, nhà văn, nhà thơ,
nhà báo… và đặc biệt hầu như tất cả các không gian kiến trúc của người Việt đều
xuất phát từ chữ “nhà” : nhà ga, nhà
thương, nhà máy, nhà hàng, nhà tưởng niệm…, và các công trình tôn giáo tín ngưỡng
cũng không ngoại lệ : nơi thờ Phật thì gọi là nhà chùa, nơi thờ Chúa thì gọi là
nhà thờ, và đó là một nét rất đặc trưng của kiến trúc truyền thống dân tộc :
công trình kiến trúc trước hết phải là một cái nhà.
Những nét đơn sơ
mộc mạc của ngôi nhà dân gian Việt Nam đã được kết tinh lại bằng một thứ ngôn
ngữ kiến trúc trau chuốt mượt mà hơn, đó chính là ngôi đình làng, nơi được xem
là trung tâm hay tiểu triều đình của cộng đồng làng xã, và cũng vì lẽ đó mà kiến
trúc đình làng đã được nhiều nhà nghiên cứu xem là hình ảnh tiêu biểu nhất của
kiến trúc truyền thống Việt Nam. Phải chăng những chiếc mái với đầu đao cong
vút lên của những ngôi đình làng tiêu biểu như đình Đình Bảng, đình Chu Quyến,
đình Tây Đằng…chính là hình ảnh của những ngôi nhà mái cong hình thuyền đã được
khắc họa trên trống đồng Đông Sơn? Vâng! Đó chính là sự thể hiện rõ nét nhất về
việc bảo lưu, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, những mái nhà hình thuyền
bằng những vật liệu thô sơ tranh tre mái lá xa xưa đã được chuyển tải một cách
tài tình thành những mái ngói với những đầu đao cong vút rất đặc trưng và độc
đáo của kiến trúc truyền thống dân tộc.
Phật giáo khi
vào nước ta từ khoảng đầu công nguyên cũng đã mất một thời gian khá lâu để tìm
được chỗ đứng ổn định trong văn hóa tín ngưỡng người Việt, và mãi cho đến thời
Lý, Trần từ thế kỷ thứ XI trở đi thì đạo Phật mới thật sự được phổ biến và phát
triển một cách mạnh mẽ. Song hành với đạo Phật thì ngôi chùa cũng đã có những
bước phát triển theo hướng “Việt hóa” để dần trở thành một hình ảnh quen thuộc
trong tâm thức người Việt. Phật giáo xuất phát từ Ấn độ với những kiến trúc bằng
gạch đá, kiến trúc chính là những ngôi tháp thờ Phật – Stupa hình quả chuông
hay hay hình cái bát úp khi qua đến Trung Quốc (nhánh Phật giáo đại thừa) đã biến
đổi thành những bảo tháp nhiều tầng mái (là sự kết hợp giữa kiến trúc tháp và
kiến trúc vọng lâu của Trung Quốc), và khi sang đến Việt Nam thì kiến trúc tháp
chỉ còn là thành phần phụ, thành phần chính là ngôi chùa bằng gỗ với không gian
thờ Phật bên trong theo đúng mô hình thờ cúng của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Ở Ấn Độ hay
Trung Quốc thì kiến trúc Phật giáo nổi tiếng nhờ ngôi tháp, còn ở Việt Nam là
nhờ ngôi chùa, mà hình thức bên ngoài của nó là sự mô phỏng lại hình dáng ngôi
nhà Việt hay ngôi đình làng. Phỏng theo ngôi nhà truyền thống ba gian mà người
ta đã tạo nên những ngôi chùa với những đặc điểm quen thuộc với những đường nét
kiến trúc tinh tế hơn, cũng là chiếc mái với đầu đao cong vút lên (tiêu biểu nhất
là chùa Tây Phương), cũng là những bộ cửa bức bàn, những tỉ lệ tầm thước hài
hòa và những gam màu sắc trang nhã lúc nào cũng hòa mình vào thiên nhiên, lấy
kiến trúc tô điểm cho thiên nhiên, và lấy thiên nhiên để làm đẹp cho công
trình. Những hình ảnh này dần càng trở nên quen thuộc đến mức đôi khi nhìn thấy
những kiến trúc với chiếc mái ngói đầu đao cong lên thì nhiều người lại liên tưởng
ngay đến kiến trúc ngôi chùa mà không hề biết rằng nó được phỏng theo kiến trúc
ngôi đình làng hay kết tinh từ những ngôi nhà dân gian truyền thống, và đó cũng
chính là quá trình “Việt hóa” của ngôi chùa Việt.
Muộn hơn Phật
giáo, đạo Thiên Chúa mới vào Việt Nam từ thế kỷ XVII nhưng đã nhanh chóng có được
một chỗ đứng vững chắc trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Do thời gian tiếp
cận chưa lâu nên kiến trúc nhà thờ Công giáo vẫn đang trong giai đoạn tìm kiếm
và định hình để hình thành riêng một phong cách kiến trúc nhà thờ theo kiểu người
Việt. Trong thời gian đầu, nhà thờ Công giáo chỉ là những ngôi nhà nguyện đơn
sơ và phần lớn dựa vào kiến trúc bản địa thời bấy giờ để thực hành tôn giáo, ví
dụ như nhà nguyện trong khuôn viên nhà thờ lớn Hà Nội chỉ là một ngôi nhà đơn
sơ theo kiến trúc thời Nguyễn, hay ngôi nhà nguyện cổ trong Tòa Tổng Giám mục
Sài Gòn, hay một số nhà nguyện ở các địa phương khác cũng theo hình thức kiến
trúc tương tự, thậm chí có những nơi chỉ được dựng tạm bằng tranh, tre, nứa,
lá…Cho đến thế kỷ XIX, khi người Pháp đặt chân vào Việt Nam, thì họ đã áp đặt
kiểu kiến trúc Roman và Gothic vào kiến trúc nhà thờ, và tiêu biểu cho kiểu kiến
trúc này là nhà thờ Đức Bà tại TpHCM và nhà thờ lớn tại Hà Nội.
Đây là hình thức
kiến trúc đã được hình thành và phát triển tại châu Âu trong các thế kỷ trước,
và cũng khá dể dàng nhận biết kiểu kiến trúc này qua hình thức cuốn cung nguyên
và cung gãy, và phạm vi áp dụng chủ yếu là trong các nhà thờ Công giáo. Do đây
là kiểu kiến trúc được người Pháp áp đặt trong quá trình khai thác thuộc địa tại
Việt Nam, và mặc dù trong quá trình triển khai thì người Pháp cũng đã cải biến
ít nhiều bằng cách đưa một số chi tiết trang trí của người Việt vào, chẳng hạn
như những chi tiết trang trí theo nghệ thuật dân gian truyền thống Việt Nam
trong khu vực cung thánh của nhà thờ lớn Hà Nội, hay hệ thống mái ngói kiểu
phương đông của nhà thờ Cửa Bắc, hay các chi tiết kiến trúc Việt, Hoa trong nhà
thờ Cha Tam…với mục đích “Việt hóa” một phần nhưng vẫn chưa tạo được một kiểu
kiến trúc tôn giáo thật sự thân thuộc với người Việt. Trong suốt quá trình phát
triển, người Kitô hữu Việt Nam vẫn luôn mong muốn tìm ra cho mình một hình thức
kiến trúc riêng, một không gian thờ phụng Thiên Chúa riêng theo kiểu của người
Việt. Có lẽ những trăn trở đó của những người Kitô hữu đã được Thiên Chúa quan
phòng và Người đã thánh hóa những ước mong đó, ban ơn trên soi sáng để Cha Phê
rô Trần Lục, mà mọi người vẫn quen gọi là Cha Sáu, tạo ra một đóa hoa tuyệt tác
trong lịch sử nhà thờ Công giáo Việt Nam, đó chính là nhà thờ Phát Diệm – một
ngôi nhà thờ theo phong cách thuần Việt, từ những không gian đóng mở theo phong
cách tạo cảnh của kiến trúc phương Đông, cho đến các hình dáng, kiểu thức kiến
trúc, các chi tiết trang trí đều hòa quyện vào nhau trong cùng một phong cách
kiến trúc truyền thống dân tộc mà vẫn không hề làm giảm đi sự linh thiêng huyền
diệu của một ngôi thánh đường. Và điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tinh thần
“Các nguyên tắc thích nghi phụng vụ của công đồng chung Vaticano II” trong việc
chọn lựa các hình thức, kiểu mẫu kiến trúc địa phương để áp dụng vào việc xây cất
nhà thờ. Chính vì vậy mà linh mục Trần Văn Khả đã phải thốt lên : “Nhà thờ
chính tòa Phát Diệm, một công trình thích nghi phụng vụ về phương diện nghệ thuật
đi trước công đồng chung Vaticano II”, đơn giản là vì nhà thờ Phát Diệm được hoàn thành trước
công đồng chung Vaticano II đến gần 70 năm. Hơn nữa ngày xưa kiến trúc Roman và
Gothic ra đời dựa trên quan điểm Thiên Chúa là đấng tối cao và ngài ngự ở trên
cao, chính vì vậy kiến trúc nhà thờ đều tập trung làm cho cao vút lên với mục
đích là để cây thập tự giá và tượng Chúa càng cao càng tốt nên kiến trúc Gothic
đã ra đời để đáp ứng
nhu cầu đó. Còn quan điểm ngày hôm nay lại cho rằng Thiên Chúa ở giữa chúng ta
nên những truyền thống kiến trúc luôn hướng tới sự hòa hợp thân thiện như kiến
trúc Việt Nam chúng ta sẽ rất dễ dàng lột tả được tư duy này và đây cũng là một
điểm lợi thế để chúng ta tiếp tục trên con đường định hình một phong cách kiến
trúc nhà thờ Việt, một phong cách kiến trúc luôn luôn phản ánh giấc mơ của con
người Việt Nam, đó chính là giấc mơ về một cuộc sống chan hòa hạnh phúc, trong
đó thiên nhiên, vạn vật và con người cùng hòa quyện vào nhau trong Chúa như nhạc sĩ Văn Cao đã từng viết
trong bài hát Làng Tôi : “Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều,
tiếng chuông nhà thờ rung…”
(Bài viết có sử
dụng một số hình ảnh trên Internet)
Ths KTS Nguyễn Bảo
Tuấn
(Nguồn: nghethuatthanh.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét