Núi là biểu tượng cho sự
uy nghi, hùng vĩ, cao cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ
giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong
Thánh Kinh đều diễn ra trên núi.
Trong tác phẩm "Đức
Giêsu thành Nazareth", suy niệm về biến cố Hiển Dung, Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô XVI đã viết những lời thật ý nghĩa về các ngọn núi:
"Chúa Giêsu đem
theo các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan riêng với mình và dẫn họ lên một ngọn núi
cao (Mc 9,2). Chúng ta lại gặp ba vị này trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33), lúc đó
cơn âu lo cuối cùng của Đức Giêsu như hình ảnh nghịch lại với Hiển Dung, dù vậy
cả hai vẫn thuộc vào nhau. Ở đây không nên bỏ qua đoạn Xh 24, ông Môisen lên
núi cùng với Aaron, Nadab và Abihu, có lẽ cùng với 70 vị trưởng lão của Israel.
Ở đây, như lời bài giảng
trên núi và trong những đêm cầu nguyện của Đức Giêsu, chúng ta lại gặp núi như
vị trí gần gũi cách đặc biệt với Thiên Chúa. Chúng ta nhìn tổng hợp một lần những
ngọn núi khác nhau trong đời sống Đức Giêsu: núi cám dỗ; núi lúc Người ngồi rao
giảng; núi cầu nguyện; núi Hiển Dung; núi âu lo; núi thập tự và cuối cùng là
núi Thăng Thiên, trên đó - nghịch lại với lời mời đón nhận vương quyền thế giới
do quyền lực của ma quỷ - Chúa tuyên bố: "Thầy đã được trao toàn quyền
trên trời dưới đất" (Mt 28,18). Nhưng trong hậu cảnh, người ta cũng thấy
xuất hiện các ngọn núi Sinai; Horep; Morija- các ngọn núi mạc khải của Cựu Ước,
kết hợp làm một với núi khổ nạn và núi mạc khải; tất cả chúng đều hướng đến núi
Đền Thờ, nơi đó mạc khải trở thành phụng vụ
Nếu chúng ta đi tìm một
lời giải thích, sẽ gặp ở hậu cảnh biểu trưng chung về núi: núi là vị trí nâng
cao, không những phải trèo lên bên ngoài, nhưng ngay cả bên trong; núi như giải
thoát gánh nặng thường nhật, như hít thở không khí trong lành của sáng tạo; núi
cho chúng ta một cái nhìn thật xa và vẻ đẹp của vũ trụ; núi cho tôi một cảm
giác nâng cao trong tâm hồn và cho tôi cảm nghiệm về Đấng Sáng Tạo. Ngoài lịch
sử, còn có cảm nghiệm về một Thiên Chúa, Đấng đang nói và kinh nghiệm về cuộc
khổ nạn mà đỉnh cao đạt được trong cuộc hy tế Isaac, trong hy tế Con chiên, tiền
ảnh của Con Chiên cuối cùng bị sát tế trên núi Golgotha. Trên núi, ông Môisen
và ông Êlia được đón nhận mạc khải của Thiên Chúa; các ngài đàm đạo với Đấng là
mạc khải của Thiên Chúa nơi bản thân Người". (Đức Giêsu thành Nazareth, Lm
Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 266-267).
Các bài đọc Thánh Kinh
của Chúa nhật hôm nay nói đến ba ngọn núi. Núi Moria, Núi Tabor và Núi
Golgotha.
1. Núi Moria, núi niềm
tin
Bài đọc 1 kể về ngọn
núi Moria. Trên núi cao, Tổ phụ Abraham sẵn sàng hiến tế con trai duy nhất cho
Thiên Chúa.
Tổ phụ Abraham có quê
hương miền Lưỡng Hà. Chúa gọi ông tại Haran, lúc ông 75 tuổi. Chúa hứa cho ông
có một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển (St 12,1-5).
Chờ đợi mãi, dài đến 25
năm sau, bà Sara mới sinh cho ông được một người con duy nhất. Abraham bước vào
tuổi 100, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Niềm vui quá lớn trong ngày
con trẻ chào đời (St 21,1-7). Bồng ẳm con trẻ, ông thấy tương lai của cả một
dân tộc hùng mạnh. Vợ chồng già hạnh phúc ngập tràn trong tiếng khóc tiếng cười
trẻ thơ. Isaac là đứa con của lời hứa, là cây gậy nương tựa tuổi già.
Thế rồi vào một ngày
kia, Chúa phán với ông: "Abraham, Abraham! Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một
yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó, ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn
thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi ". Tiếng sét ngang tai làm ông chết lặng.
Lệnh truyền sát tế Isaac, vượt quá tầm nghĩ của con người. Lời chúc phúc của
Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, sẽ thành mây khói. Lệnh truyền làm
ông đau nhói ruột gan.
Nhưng với niềm tin mãnh
liệt, Abraham thi hành lập tức lệnh truyền ấy. Ngay khi ông đang giơ cao con
dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông. Chúa phán: "Đừng
giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi
không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta ".
Đức tin và lòng vâng phục
của tổ phụ Abraham trở nên gương mẫu cho muôn thế hệ.
Tác giả thư Do Thái viết:
"Bởi tin, Abraham được kêu gọi vâng lời ra đi đến xứ ông sẽ lấy làm cơ
nghiệp, ông ra đi mà chẳng biết mình đi đâu" (Dt 11,8). Tin là sẵn sàng
làm theo lời Chúa dạy, hy vọng Chúa sẽ thực hiện điều Người hứa, dù trước mắt
chưa thấy chút gì là hiện thực cả. Vâng lời Chúa, ông đã bỏ quê cha đất tổ lên
đường và đặc biệt ông đã dám dâng Isaac làm lễ tế Thiên Chúa. Đức tin thật vững
chắc, không do dự, không mặc cả. Vì một dạ tín trung với Chúa, Abraham đã nên
"bạn thân của Thiên Chúa" (Gc 2,23). Chúa gọi ông là "Tôi Tớ của
Ta" và nói "Ta ở với ngươi" (St 26,24). Vì Chúa "Chúc lành
cho các dân tộc trong dòng giống ông và dòng giống ông sẽ nên đông như cát biển"
(Hc 44,21), nên ông là cha chúng ta trong đức tin.
2. Núi Tabor, núi vinh
quang
Chuẩn bị bước vào cuộc
khổ nạn, Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết: Người sẽ lên Giêrusalem để chịu
khổ nạn và chịu chết. Các môn đệ chao đảo niềm tin. Phêrô đại diện cho các anh
em phản đối kiệt liệt. Phêrô không chấp nhận thập giá khổ nhục. Để cũng cố niềm
tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu đưa họ lên núi cao. Chúa biến hình, cho họ thấy
một thoáng Phục sinh trước Phục sinh, cho hưởng nếm một chút Thiên đàng trước
Thiên đàng. Nhờ đó các môn đệ thêm niềm tin tưởng, thêm mạnh mẽ can đảm.
Chúa đưa ba môn đệ lên
núi cao. Các ông được đi vào một thế giới vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, làm biến đổi
ý nghĩa cuộc đời.
Các ông thấy:
"Dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh,
không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy" (Mc 9,3); "Dung
nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh
sáng" (Mt 17,2); "Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người đổi khác,
y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa" (Lc 9,29).
"Chính nơi đây nổi
bật sự liên hệ và sự khác biệt với gương mặt ông Môisen: "Khi ông Môisen từ
trên núi Sinai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Môisen
không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa" (Xh
34,29-35). Qua việc đàm đạo với Thiên Chúa, ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng
trên ông và làm cho ông sáng chói. Như thế, ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào ông
làm cho ông sáng chói. Đức Giêsu chói sáng tự bên trong, không những Người đón
nhận ánh sáng mà chính Người là ánh sáng bởi ánh sáng". (sđd trang 268).
Và có một đám mây bao
phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu,
hãy vâng nghe lời Người!" (Mc 9,7). Đám mây thiên linh, là dấu chỉ sự hiện
diện của Thiên Chúa. Đám mây ngự trên Lều Hội Ngộ cho thấy sự hiện diện của Đức
Chúa. Đức Giêsu là Lều Thánh, đám mây của sự hiện diện Thiên Chúa đậu trên Người
và từ đó cũng sẽ "bao phủ" mọi người. Sự kiện thánh tẩy Đức Giêsu được
tái hiện, nơi đó Chúa Cha từ đám mây công bố Đức Giêsu là Con: "Con là Con
yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1,11). (sđd trang 172).
Các môn đệ còn thấy:
"Có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia". Đây
là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại diện cho hai thực tại quan
trọng nhất của Do Thái giáo. Môisen đại diện cho luật pháp. Êlia đại diện cho các
ngôn sứ. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức Giêsu. "Lề luật
và ngôn sứ đàm đạo với Đức Giêsu và nói về Người. Trong một chú thích ngắn
ngũi, thánh Luca trình thuật cho chúng ta về điều hai chứng nhân của Thiên Chúa
nói với Đức Giêsu: "Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất
hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem" (Lc 9,31). Đề tài đàm đạo của
các ngài là thập giá, nhưng hiều ngầm là cả cuộc "Xuất hành của Đức
Giêsu" phải diễn ra tại Giêrusalem. Thập giá Đức Giêsu là cuộc xuất hành,
một việc bước ra khỏi cuộc sống này, vượt qua Biển Đỏ của cuộc khổ nạn và tiến
đến vinh quang, dù vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn". (sđd trang
268).
Ba môn đệ Phêrô, Gioan
và Giacôbê có những trải nghiệm tuyệt vời về Thầy của mình. Cũng vẫn là Đức
Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày,
nhưng lần này, các ông được nhìn thấy Người dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời,
thật hấp dẫn và đầy uy nghi. Các ông vững lòng tin tưởng.
3. Núi Golgotha, núi
tình yêu
Trên núi cao, Đức Giêsu
gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây
trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh
phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô
thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là
hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môisen,
và một cho ông Êlia".
Các môn đệ muốn đăng ký
thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới
chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân
chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người
chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi
Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn,
chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. "Cảm nghiệm sự kiện Hiển
Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được
biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung
loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học
hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển
Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc
khổ nạn.". (sđd trang 269).
Hai đỉnh núi: núi Tabor
và núi Golgotha cách nhau không xa về địa lý nhưng lại là con đường vạn lý. Chỉ
có con đường thập giá tình yêu mới nối liền hai núi mà thôi.
Thánh Phêrô cùng các
Tông đồ còn phải vượt qua những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi
khó khăn thử thách, còn phải chịu đau khổ vì Thầy chí thánh, còn phải trải qua
cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước. Các
ngài chỉ đi một con đường Thầy mình đã đi qua. Đó là con đường thánh giá tình
yêu.
4. Muốn tới vinh quang
phải đi qua thập giá tình yêu và niềm tin.
Ba môn đệ thân tín được
Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc
Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên
Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật
và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm
nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên
núi, họ thấy "quyền lực" của vương quốc đang đến trong Đức Kitô.
Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức
Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo
đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: "Chúng tôi rao giảng một Đức
Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và
dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là
Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn
ngoan của Thiên Chúa" (1,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện
nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của
cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được
tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của
Đức Giêsu.(sđd trang 273).
Muốn đạt tới vinh quang
núi Tabor, cần phải vượt qua được hai ngọn núi Moria đức tin và Golgotha tình
yêu một cách trọn vẹn. Lúc ấy,thật là hạnh phúc được chiêm ngưỡng vinh quang
Thiên Chúa.
Lm Giuse
Nguyễn Hữu An
Nguồn:
http://tgphanoi.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét