NƯỚC MẮT LÀ QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA

-Anh
chỉ mở cửa, đóng cửa, chào khi khách đến và lúc họ về, chỉ họ phòng viếng xác
và nhà vệ sinh chỗ nào. Nếu họ có thắc mắc nào khác, hỏi tôi.
Nói
xong, ông trở vào phòng làm việc tiếp, còn tôi ngồi xuống cái ghế cạnh cửa ra
vào bên góc phải.
Từ
lúc bé, tôi vốn sợ ma, sợ người chết và nhất là sợ thấy những khuôn mặt sầu não
với những giọt nước mắt. Mỗi lần có đám ma đi ngang nhà, tôi trốn sâu trong phòng;
nhắm mắt, bịt kín hai lỗ tai để khỏi phải nghe những tiếng than khóc. Tôi sợ thấy
cảnh ly tan. Tôi trách mình vì đã chọn nơi đây thay đi làm bên nhà thương, trại
tù, hay soup kitchen mới phải. Làm việc thiện nguyện tôi có nhiều lựa chọn, nhưng
không hiểu sao lại là nơi này? Phải chăng đây là con đường Chúa muốn tôi đi? Phải
chăng Chúa muốn tôi đối diện với chính nỗi sợ mà tôi muốn trốn chạy bao nhiêu
năm nay? Phải chăng Ngài muốn dạy tôi điều gì?
Đang
miên man suy nghĩ, tôi nghe loáng thoáng có tiếng chân và giọng nói bên ngoài.
Một người thiếu phụ tuổi trạc 50 và một cô gái trẻ chừng 20 bước vào. Người thiếu
phụ mặc bộ đầm đen và đầu phủ một tấm voan đen làm nổi bật làn da trắng của bà.
Cô gái mặc bộ đồ tây đen, mái tóc đen tuyền xỏa dài ngang lưng, không phấn son.
Tôi mở cửa chào cả hai. Cô gái lên tiếng:
-Xin
vui lòng chỉ cho tôi phòng ông Fernando Sanchez.
Tôi
đưa họ đến phòng viếng xác. Cả hai bước vào độ 10 phút, sau đó trở ra cửa đứng
đón những người thân quen. Đến 7 giờ các dãy ghế đầy người. Tiếng đàn, tiếng
hát, tiếng kinh ngân nga kéo dài đến 8 giờ rồi ngưng. Những tiếng khóc nức nở
vang ra từ căn phòng. Cô gái và người thiếu phụ bước ra tiễn khách về. Những
vòng tay ôm thân tình, nồng ấm trao nhau. Nước mắt lăn trên má người thiếu phụ
khi từng người đến chào bà. Ngược lại, cô con gái trông rất bình thản, không giọt
nước mắt trên khuôn mặt. Khi người khách sau cùng bước ra cửa, hai mẹ con ngồi
bệt xuống chiếc ghế sa lông. Cô con gái gục đầu vào vai người thiếu phụ và bỗng
bặt khóc òa, nức nở. Cô không ngại ngùng vì sự có mặt của tôi. Các giọt lệ vẫn
rơi trên khuôn mặt người thiếu phụ, nhưng bà chẳng buồn lau. Bà ngồi lặng yên để
cô gái mượn bờ vai trút niềm đau…
Tiếng
khóc của cô làm lòng tôi buồn nức nở theo. Tôi bỗng nhớ đến ba tôi. Ngày ba mất
tôi không ở cạnh bên. Tôi chưa một lần cảm nhận nỗi đau mất cha như cô gái đó.
Đêm nay là đêm cuối cô được nhìn xác người cha thân yêu. Ngày mai, khi nắp hòm
đã đóng, đất phủ quan tài, cô sẽ vĩnh viễn xa người cha. Thật sự mất rồi! Giờ
kinh đêm có chiếc ghế trống. Ai sẽ xướng kinh đêm nay, đêm mai và những ngày tới?
Không còn ngày “Lễ của Cha”. Không gian tĩnh mịch khi thiếu giọng cười hiền
hòa, tiếng nói trầm ấm và vòng tay ôm của cha. Mất rồi!...
Nước
mắt lăn trên má tôi tự khi nào tôi không hay. Như cô gái, lần đầu tiên tôi
khóc. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được nỗi đau mất cha. Hôm nay tôi không bỏ chạy
trước cảnh tang thương. Không nhắm mắt. Không bịt tai. Nỗi đau của họ như đang
luân chuyển trong tôi. Tôi đồng cảm niềm đau thương tiếc, nỗi buồn ly tan với họ.
Nước mắt họ và tôi rơi xuống sàn gạch như đang chảy về cùng một dòng. Trong
không gian chúng tôi có khoảng cách, nhưng trong đau khổ chúng tôi không có
biên giới. Nước mắt đem con người đến gần nhau. Nước mắt làm vơi nỗi đau.
Nước
mắt là quà tặng của Chúa ban cho con người bên cạnh ngôn ngữ, ý tưởng được diễn
đạt bằng lời hay bút mực.
Lạy
Chúa! Nỗi sợ năm xưa của con đã tan theo
dòng nước mắt. Tuy đau khổ đồng hành với nước mắt, nhưng nước mắt không là điều
đáng sợ để con phải trốn chạy, không dám đối diện.
Cám
ơn Chúa đã ban cho con nước mắt để xoa dịu nỗi đau thể xác và tâm hồn. Xin cho
con luôn biết sống thật với lòng mình. Biết vui với người vui, buồn với người
buồn. Mọi sự Chúa tạo dựng đều hoàn hảo dẫu đó là nước mắt. Amen!
Lữ Khách
Hayward,
Hè 2007
(Nguồn:
dongcong.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét